Trong chiến tranh Con ngựa trong văn hóa Mông Cổ

Trong lịch sử, người Mông Cổ nổi tiếng vì đội kỵ binh tinh nhuệ cùng với sự tàn bạo của họ với “vó ngựa và cánh cung”. Người Mông Cổ là dân tộc thiện chiến bậc nhất lịch sử, chẳng thế mà có câu "Vó ngựa Mông Cổ đi tới đâu, cỏ chết đến đấy". Dân tộc du mục này sống trên lưng ngựa, chiến đấu trên lưng ngựa và cũng ăn ngủ trên lưng ngựa. Về loài ngựa thì sự tồn tại của nó có lẽ quyết định cho sự phát triển của cả một đế chế, thậm chí là thay đổi lại toàn bộ lịch sử thế giới chẳng hạn như lực lượng kỵ binh du mục mà tiêu biểu là kỵ binh Mông Cổ với kiểu tổ chức khinh kỵ (kỵ binh nhẹ) kết hợp với cung tiễn gọi là kỵ xạ Mông Cổ.

Giống ngựa của người Mông Cổ tuy nhỏ nhưng nhanh nhẹn, chúng có thể sinh tồn được ngay ở ở trong những môi trường thưa thớt cỏ nhất. Ngựa Mông Cổ có độ bền tuyệt vời, rất dai sức và có thể chạy một quãng đường dài mà không bị đuối sức. Thông thường, mỗi người lính đều có từ 4-6 con ngựa. Đặc biệt, họ sẽ luân chuyển việc cưỡi từng con ngựa trong khi tham gia chiến đấu, để đảm bảo không có một con ngựa nào bị cạn kiệt sức lực. Điều này góp phần tăng khả năng linh hoạt cho quân đội Mông Cổ. Họ có thể đi được rất xa, khoảng gần 100 đến 160 km/ngày. Khi hành quân, nếu cần có thể rạch một mạch máu ngay trên cổ con ngựa đang cưỡi để hút máu. Họ có thể ngồi liên tiếp trên lưng ngựa mười ngày liền, ăn ngủ trên đó.

Tái hiện cảnh chiến đấu của kỵ binh Mông Cổ

Ngựa Mông Cổ được huấn luyện sao cho thuận tiện đối với kỵ sĩ có thể bắn cung đủ mọi hướng trong khi chạy nhanh và sao cho thật ổn định khiến cho xạ thủ không bị trở ngại. Một ưu điểm của tư thế đó là khi chạy nhanh hay phi nước đại, con ngựa bao giờ cũng nhoài đầu về trước khiến cho cung thủ không bị vướng víu, có thể quay ngang quay dọc, trái phải một cách tự do. Ngựa phải được hoàn toàn tự do, không yên cương, không ràng mõm, không chở đồ nặng và chỉ được thắng giàm vào giờ phút cuối cùng trước khi xung trận. Đặc biệt ngựa Mông Cổ ít khi tự tiện hí vang, làm lộ vị trí, chúng cũng không tự tiện rời vị trí dù chủ nó không buộc dây.

Khác với các nước phương Tây, dân Mông Cổ cầm dây cương ngựa bằng một tay, và dùng những bàn đạp nhỏ hơn, họ có thể nhoài người, rạp người, khom người, rướn người, xoay người, ngã người khi đang cưỡi ngựa một cách điêu luyện và thuần thục, nhỏ bé này lại mang lại lợi ích rất lớn cho bất kỳ chiến binh, ngoài việc thiết kế nhẹ, giảm tải trọng cho ngựa thì kỵ binh nào sử dụng chúng giúp ổn định trọng tâm, có điểm tựa để giữ thăng bằng, người Mông Cổ đứng trên bàn đạp yên ngựa, cụ thể là với phần lớn trọng lượng cơ thể được dồn vào bắp chân, trong khi chỉ dồn một phần nhỏ lực xuống bàn chân và mắt cá chân, nó giúp những người lính Mông Cổ có thể ngồi thẳng, vững trọng tâm trên lưng ngựa ở cả trong các tình huống hỗn loạn nhất.

Những con ngựa đó được các chiến sĩ nuôi dưỡng trực tiếp từ khi còn nhỏ, ngoan ngoãn và thân cận. Người Mông Cổ biết rằng sức mạnh của họ chủ yếu là kỵ binh nên luôn luôn chú trọng đến việc duy trì một lượng lớn số ngựa nuôi. Mỗi người lính Mông Cổ phải tự chăm lo cho bầy ngựa của mình từ nhỏ cho tới khi đủ năm tuổi mới cưỡi được và tuyệt đối tuân lệnh người cưỡi nó. Đó chính là yếu tố quan trọng để dùng ngựa trong chiến đấu, kỵ sĩ và tọa kỵ là một. Trước đây, ngựa đực đều bị thiến (gelding) để khi hành quân không nổi cơn bất tử khi thấy ngựa cái và chỉ những con đực khỏe mạnh nhất mới được giữ lại làm giống. Đối với chiến mã, Thành Cát Tư Hãn có những quy luật nghiêm nhặt để dưỡng sức cho tọa kỵ.

Ngựa Mông Cổ vốn là ngựa thảo nguyên, nên sức vóc và cơ bắp không thể to khỏe như loại ngựa nuôi nhốt của các trại huấn luyện ngựa châu Âu nhưng ngựa thảo nguyên lại rất linh hoạt và dẻo dai, chịu đựng thời tiết tốt. Chính vì thể hình ngựa nhỏ, gầy, Thành Cát Tư Hãn không đầu tư giáp nặng cho cả ngựa và các chiến binh. Thay vào đó, ông tìm cách giảm tải tối đa cho đại đa số các chiến mã. Loại giáp của Mông Cổ được thiết kế với những chất liệu nhẹ hơn như gỗ và tre, và người Mông Cổ đã phát triển ra loại cung tên đặc chế dành riêng cho kỵ binh của mình là những chiếc cung ngắn (đoản cung Mông Cổ), đối với đội quân chỉ toàn kỵ binh, trường cung không phải là lựa chọn tốt vì cánh cung quá dài sẽ gây vướng víu trên lưng ngựa, số lượng mũi tên lớn, nặng và cồng kềnh đi theo trường cung cũng sẽ khiến cho ngựa chiến mau kiệt sức nên sự lựa chọn thích hợp là đoản cung.

Thành Cát Tư Hãn coi trọng yếu tố mỏng nhẹ của giáp kỵ binh để duy trì sự linh hoạt vốn có, ông cũng cải tiến lại chiếc cung tên đi săn truyền thống thành chiếc cung ngắn sử dụng trên chiến trường loại đoản cung này ngắn và nhẹ hơn rất nhiều so với các loại cung tên truyền thống khác, dù chỉ bắn được ở cự ly ngắn, những chiếc cung tên này lại dễ dàng được mang trên lưng ngựa, cùng với khả năng bắn, nạp nhanh, linh hoạt. Từ đó, đội kỵ binh giáp nhẹ, cung, tên nhẹ ra đời. Nhờ vào tải trọng ít, kỵ binh Mông Cổ rất dễ tăng tốc, quay đầu nhanh hơn so với kỵ binh giáp nặng của châu Âu vốn chỉ mạnh mẽ mỗi khi tấn công. Khinh kỵ binh hay khinh kỵ là đội quân cưỡi ngựa nhỏ, chạy nhanh và dẻo dai. Kỵ sĩ được trang bị nhẹ với vũ khí chủ yếu là kiếm, gươm, khiên, vũ khí cận chiến và cả cung tên.

Khinh kỵ đặc biệt thích hợp cho những chiến thuật mang tính lưu động, đánh chặn sườn, quấy rối, đánh úp, do thám, truy đuổi và rút lui trong khoảng khắc đây là một chiến thuật khác xa với các đội kỵ binh hiệp sĩ nặng nề của châu Âu cùng thời. Sự linh hoạt đến đáng sợ của khinh kỵ Mông Cổ kết hợp với việc họ có thế hồi mã cung ưa thích của kỵ binh Mông Cổ. Để phát huy sức mạnh của các đội kỵ binh, không chỉ phát huy lợi thế di chuyển nhanh, quân Mông Cổ thường dùng bài chia rẽ lực lượng quân địch và áp đảo các cánh quân lẻ bằng cung nỏ. Họ tìm các phong tỏa hoặc vây hãm kẻ thù và chiếm lợi thế về quân số tại điểm tấn công. Ngựa cưỡi của quân kỵ bị tấn công, họ đẩy kỵ binh địch khỏi lưng ngựa để dễ dàng tiêu diệt. Các trận chiến thường diễn ra rất nhanh và ào ạt làm nên chiến thuật của người Mông Cổ là thần tốc, ào ạt và hủy diệt, tốc chiến tốc quyết tựa sấm đánh không kịp bưng tai.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Con ngựa trong văn hóa Mông Cổ http://www.bienphongvietnam.vn/nghien-cuu-trao-doi... http://www.baoquangninh.com.vn/du-lich/201406/van-... http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van... http://danviet.vn/khoa-hoc/nhung-noi-ngua-noi-tien... http://vov.vn/du-lich/mong-co-chua-doi-got-da-mo-n... http://vtc.vn/ngua-mong-co-co-gi-dac-biet.200.4742... http://www.vtc.vn/ngua-mong-co-co-gi-dac-biet-d145... http://news.zing.vn/Hinh-anh-ngua-phi-tuyet-dep-tr... https://thanhnien.vn/thoi-su/phi-ngua-tren-thao-ng... https://tuoitre.vn/qua-di-my-cua-tong-thong-mong-c...